Bệnh ung thư là căn bệnh khiến nhiều người phải kinh sợ, vô cùng nguy hiểm và tỉ lệ gây tử vong cao đang dần trở nên phổ biến. Ung thư xuất hiện một cách âm thầm, khối u lớn lên từng ngày mà chúng ta thậm chí không hề hay biết. Chính vì vậy hiểu rõ ung thư là gì sẽ giúp người bệnh nhận được các phương pháp điều trị thích hợp, những người khỏe mạnh cũng sẽ có phương pháp phòng ngừa bệnh phù hợp.
1. Bệnh ung thư là gì?
Ung thư là bệnh lý ác tính khi các tế bào bất thường phát triển không kiểm soát được, dẫn đến xâm lấn và phá hủy các mô tế bào bình thường. Các tế bào bất thường này được gọi là tế bào ung thư.
Hiện nay, các nhà khoa học đã phát hiện hơn 200 loại bệnh ung thư khác nhau.
Hầu hết, các tế bào trong cơ thể có chức năng cụ thể và tuổi thọ cố định. Trong quá trình điều hòa, một tế bào nhận được chỉ thị để chết và cơ thể có thể thay thế nó bằng một tế bào mới hơn hoạt động tốt hơn. Với các tế bào ung thư thiếu các yếu tố hướng dẫn chúng ngừng phân chia và chết. Kết quả dẫn đến sự tích tụ trong cơ thể, sử dụng oxy và chất dinh dưỡng thường nuôi dưỡng các tế bào khác.
Các tế bào ung thư có thể xuất hiện ở một khu vực, sau đó lan rộng qua các hạch bạch huyết.
Mỗi loại bệnh ung thư sẽ có mức độ lan rộng khác nhau. Có loại tế bào ung thư phát triển nhanh, xâm lấn di căn nhanh. Có loại ung thư tế bào phát triển chậm hơn, xâm lấn di căn muộn hơn.
Một số dạng ung thư có thể gây ra những tăng trưởng rõ rệt (khối u), trong khi những dạng khác (như bệnh bạch cầu) thì không.
Bệnh ung thư được chia thành các loại lớn gồm
- Ung thư biểu mô (Carcinoma): Ung thư có nguồn gốc từ các tế bào biểu mô. Nhóm này bao gồm nhiều loại ung thư phổ biến nhất và có chứa gần như tất cả các loại ung thư ở vú, tuyến tiền liệt, phổi, tuyến tụy và ruột kết.
- Ung thư mô liên kết (Sarcoma): Ung thư phát sinh từ các mô liên kết (ví dụ như xương, sụn, mỡ, thần kinh), mỗi loại ung thư phát triển từ các tế bào có nguồn gốc từ tế bào trung mô bên ngoài tủy xương.
- Ung thư bạch huyết (Lymphoma) và bệnh bạch cầu (Leukemia): Hai nhóm ung thư này phát sinh từ các tế bào tạo máu rời khỏi tủy xương và có xu hướng trưởng thành trong hạch bạch huyết và máu, lần lượt theo thứ tự.
- Ung thư tế bào mầm: Các khối ung thư có nguồn gốc từ các tế bào đa năng, thường gặp nhiều nhất ở tinh hoàn hoặc buồng trứng – với tên gọi tương ứng là u tinh bào (Seminoma) và u nghịch mầm (Dysgerminoma).
- Ung thư nguyên bào (Blastoma): Ung thư có nguồn gốc từ các tế bào “tiền thân” chưa trưởng thành hoặc từ mô phôi.
2. Phân biệt giữa tế bào ung thư và tế bào bình thường
Các tế bào ung thư khác với các tế bào bình thường là các tế bào ung thư ít chuyên biệt hơn các tế bào bình thường. Ngoài ra, các tế bào ung thư có khả năng phớt lờ các tín hiệu mà thông thường ngăn cản quá trình phát triển và phân chia tế bào như là các tín hiệu chết tế bào theo chương trình – các tín hiệu giúp cơ thể loại bỏ các tế bào không cần thiết.
Hệ thống miễn dịch thông thường có khả năng loại bỏ và tiêu diệt các tế bào bị tổn thương hoặc các tế bào bất thường khỏi cơ thể, tuy nhiên các tế bào ung thư có thể “tàng hình” trước hệ thống miễn dịch. Hơn nữa, chúng còn có khả năng lợi dụng hệ thống miễn dịch, có thể tránh được đáp ứng miễn dịch của cơ thể để tồn tại và phát triển.
Các tế bào ung thư có thể ảnh hưởng đến các tế bào, phân tử và mạch máu bình thường bao quanh và nuôi dưỡng khối u. Một khu vực được gọi là môi trường vi mô. Ví dụ, các tế bào ung thư có thể tạo ra các tế bào bình thường gần đó để hình thành các mạch máu cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho khối u. Những mạch máu này cũng loại bỏ các chất thải từ các khối u.
3. Phân biệt u lành tính và u ác tính
Khối u cũng được chia làm 2 loại. U lành tính và u ác tính.
Khối u lành tính sẽ tăng trưởng đến một mức nào đó rồi dừng lại. Còn những khối u ác tính sẽ tăng trưởng không giới hạn. Tế bào tăng trưởng quá mức dẫn đến mức chèn ép, gây tổn thương đến những tế bào lân cận. Nó sẽ không dừng lại cho đến khi không còn gì để phá. Tồi tệ hơn là khi những tế bào ác tính này di căn (di chuyển) sang những khu vực khác gây nguy cơ tử vong như não, tim, phổi,…
Ung thư được sinh ra bởi sự biến đổi của các gen kiểm soát chức năng tế bào, đặc biệt là các gen kiểm soát quá trình phát triển và phân chia tế bào.
Các nhà nghiên cứu nhận ra rằng trong mỗi tế bào ung thư chứa nhiều đột biến. Có một số đột biến có thể thấy ở nhiều dạng ung thư khác nhau. Các ung thư giống nhau về hình thể mô học nhưng đáp ứng điều trị khác nhau, và vì thế tiên lượng cũng rất khác nhau. Ví dụ, nhóm các ung thư đại trực tràng không có đột biến KRAS và BRAF có tiên lượng tốt hơn nhóm có đột biến một trong hai gen trên. Vì vậy, tần số và các loại đột biến gen hiện nay được sử dụng phổ biến để phân chia dưới nhóm ung thư.
4. Triệu chứng bệnh ung thư
a. Các dấu hiệu bệnh ung thư không đặc hiệu có thể bao gồm:
- Mệt mỏi
- Gầy, sụt cân không rõ nguyên nhân
- Xuất hiện vùng u lên dưới da
- Sốt hoặc đổ mồ hôi ban đêm không rõ nguyên nhân.
b. Ngoài ra, triệu chứng bệnh ung thư còn tùy thuộc vào loại ung thư cụ thể:
Đối với bệnh nhân ung thư phổi sẽ có các triệu chứng như:
- Ho kéo dài
- Ho ra máu
- Khó thở dai dẳng
- Khó nuốt, khàn tiếng.
Trọng bệnh ung thư vú, bệnh nhân có thể:
- Tự sờ thấy khối u vú
- Chảy dịch núm vú bất thường.
Trong bệnh ung thư cổ tử cung, bệnh nhân có thể có biểu hiện ra máu âm đạo bất thường.Trong bệnh ung thư đường tiêu hóa (ung thư bàng quang, ung thư dạ dày,…), các triệu chứng có thể bao gồm:
- Những thay đổi trong thói quen về ruột hoặc bàng quang (như đi cầu hay đi tiểu)
- Khó tiêu hoặc khó chịu dai dẳng sau khi ăn.
Các dấu hiệu ung thư da có thể bao gồm:
- Vàng, sạm hoặc đỏ da
- Lở loét không lành hoặc thay đổi các nốt ruồi hiện có
- Chảy máu hoặc bầm tím không rõ nguyên nhân.
Các triệu chứng ung thư xương có thể bao gồm: đau cơ hoặc đau khớp dai dẳng, không rõ nguyên nhân.
5. Nguyên nhân gây bệnh ung thư
a. Đột biến DNA
Bệnh ung thư được gây ra bởi những thay đổi (đột biến DNA) trong các tế bào. DNA bên trong một tế bào được đóng gói thành một số lượng lớn các gen riêng lẻ, mỗi gen chứa một bộ hướng dẫn cho tế bào biết chức năng nào sẽ thực hiện, cũng như cách phát triển và phân chia. Lỗi trong hướng dẫn có thể khiến tế bào ngừng hoạt động bình thường và có thể cho phép tế bào bị ung thư.
Những đột biến này là những đột biến phổ biến nhất được tìm thấy trong ung thư. Nhưng nhiều đột biến gen khác có thể góp phần gây ung thư.
b. Lối sống thiếu khoa học
Lối sống hằng ngày cũng được xét đến là một yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư. Hút thuốc, uống nhiều hơn một ly rượu mỗi ngày (đối với phụ nữ ở mọi lứa tuổi và nam giới trên 65 tuổi) hoặc hai ly mỗi ngày (đối với nam giới từ 65 tuổi trở xuống), tiếp xúc quá nhiều với ánh nắng mặt trời hoặc bị cháy nắng thường xuyên, bị béo phì và quan hệ tình dục không an toàn có thể góp phần gây ung thư.
c. Do di truyền
Nếu ung thư là phổ biến trong gia đình bạn, có thể các đột biến đang được truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo. Bạn có thể làm xét nghiệm di truyền để xem có di truyền đột biến làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư hay không. Hãy nhớ rằng có một đột biến di truyền không nhất thiết là bạn sẽ bị ung thư.
Một số bệnh sức khỏe mãn tính, chẳng hạn như viêm loét đại tràng, có thể làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển bệnh ung thư. Vì vậy, với những người mắc các bệnh mãn tính, cần gặp bác sĩ và theo dõi sức khỏe thường xuyên.
d. Ô nhiễm môi trường
Môi trường xung quanh chứa các hóa chất độc hại có thể làm tăng nguy cơ ung thư. Ngay cả khi bạn không hút thuốc, bạn vẫn có thể hít khói thuốc nếu bạn đến nơi mọi người đang hút thuốc hoặc nếu bạn sống với người hút thuốc. Hóa chất trong nhà hoặc nơi làm việc, chẳng hạn như amiăng và benzen, cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ bệnh ung thư.
6. Những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư, chẳng hạn như:
-
Tuổi tác: Ung thư có thể mất hàng thập kỷ để phát triển, đó là lý do tại sao hầu hết mọi người được chẩn đoán mắc bệnh khi đã 65 tuổi hoặc lớn hơn. Tuy nhiên, ung thư không phải là bệnh chỉ gặp ở người lớn tuổi, bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi.
-
Các tình trạng sức khỏe khác: Một số bệnh mạn tính như viêm loét đại tràng có thể làm tăng nguy cơ phát triển một số bệnh ung thư
7. Cơ chế gây bệnh ung thư



Cơ chế bệnh ung thư
a. Cơ chế gen
Trong cơ thể co người có hai nhóm gen, đó là gen sinh ung thư (hay còn gọi là oncogene) và gen kháng ung thư (tumor suppressor gene). Hai nhóm gen này liên quan mật thiết đến việc khởi phát bệnh ung thư.
Hai nhóm gen này, bình thường trong tế bào chúng đóng vai trò kiểm soát quá trình sinh sản tế bào. Tế bào sinh sôi đến một giai đoạn nhất định sẽ chế đi và thay thế bằng tế bào mới khác, giúp cho sự ổn định sinh học của cơ thể.
Gen sinh ung thư sẽ kiểm soát theo hướng tích cực, thúc đẩy quá trình phân bào, hình thành những tế bào mới có kiểm soát. Nhưng khi gne này bị đột biến, những tín hiệu sai lạc sẽ truyền đi và cơ thể không thể kiểm soát được quá trình sinh sôi của tế bào, từ đó hình thành ung thư.
Ngược lại, các gen kháng ung thư có chức năng chính là kiểm soát quá trình phân bào, hay nói cách khác, gen kháng ung thư làm chết tế bào theo chương trình. Ngoài ra, nó còn có chức năng biệt hóa tế bào, khi các gen kháng ung thư bị đột biến, nó làm làm biến đổi tế bào từ lành tính thành ác tính.
b. Cơ chế tế bào
Người bình thường có khoảng 1 triệu tỉ tế bào xuất phát từ một trứng đã được thụ tinh. Số lượng tế bào mới trong cơ thể được tạo ra bằng số lượng tế bào chết đi và luôn giữ ở mức hằng định khoảng 10 mũ 12 tế bào.
Ở những bệnh nhân ung thư, tế bào sinh sản vô hạn độ đã phá vỡ cấu trúc hằng định (tế bào sinh ra nhiều hơn rất rất nhiều lần tế bào chết đi). Cơ chế của việc tăng trưởng số lượng tế bào này là do thời gian các chu trình bị rút ngắn làm cho tốc độ sinh tế bào nhanh hơn.
Tiến triển của các căn bệnh ung thư phụ thuộc vào thời gian nhân đôi của tế bào, có loại tiến triển nhanh, có loại tiến triển chậm. Ví dụ bệnh Ulympho Burkitt có thời gian nhân đôi chỉ khoảng 3 ngày. Trong khi đó, ung thư đại trực tràng thời gian nhân đôi là 600 ngày.
Ngoài ra, sự tăng sinh tế bào ung thư còn do cơ chế mất ức chế tiếp xúc. Bình thường, khi tế bào đang phân chia nếu tiếp xúc với tế bào khác cũng đang phân chia thì quá trình này sẽ kết thúc. Tế bào sẽ không tiếp tục được sinh ra nữa. Thế nhưng, khi bị bệnh ung thư, cơ chế này không còn do các tế bào ung thư mất tính kết dính, không chịu tác động của tế bào bên cạnh nữa.
c. Cơ chế sinh ung thư khác
Cơ chế sinh ung thư đến nay vẫn còn được nghiên cứu và bàn cãi rất nhiều, ngoài 2 cơ chế chính trên còn một vài cơ chế khác cũng đã được cho là hợp lý.
- Rối loạn trong quá trình nhân đôi ADN làm thúc đẩy sự đột biến của gen ung thư và gen kháng ung thư
- Rối loạn trong việc tăng trưởng, phát triển của cơ thể cũng là nguyên nhân có thể gây ung thư
- Ung thư liên quan đến sự suy giảm miễn dịch vì người HIV hay người dùng thuốc ức chế miễn dịch để điều trị bệnh có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn người bình thường
.
Những tác nhân khởi phát bệnh ung thư chủ yếu hay gặp là tia cực tím, tia tử ngoại, thuốc lá, thực phẩm bẩn-nấm mốc-ôi thiu, một số loại thuốc, các vấn đề hóa chất trong nghề nghiệp, vấn đề bụi bẩn trong không khí như người làm chăn nuôi hay xử lý rác thải,…
Qua 3 cơ chế bệnh sinh của ung thư giúp chúng ta hiểu được rẳng ung thư không tự sinh ra, nó do nhiều yếu tố trong cơ thể tác động.
8. Các loại bệnh ung thư phổ biến
Tên các loại bệnh ung thư thường được đặt theo khu vực đầu tiên nó xuất hiện và loại tế bào ung thư mà chúng tạo ra, ngay cả khi bệnh di căn đến một vị trí khác trong cơ thể.
Ung thư được chẩn đoán phổ biến nhất là tuyến tiền liệt, tiếp theo là vú, đại trực tràng hoặc ruột, u ác tính và phổi. Có hơn 200 loại khác nhau, nhưng 5 loại phổ biến nhất này chiếm 60% tổng số trường hợp.
Các bệnh phổ biến nhất ở nam giới và phụ nữ được liệt kê theo thứ tự dưới đây:
Đàn ông
- Tuyến tiền liệt
- Ruột (đại trực tràng)
- Phổi
- Đầu và cổ
Phụ nữ
- Vú
- Ruột (đại trực tràng)
- Phổi
- Tử cung
Trong đó, các bệnh gây tử vong ở nam giới và phụ nữ được liệt kê theo thứ tự dưới đây:
Đàn ông
- Phổi
- Tuyến tiền liệt
- Ruột (đại trực tràng)
Phụ nữ
- Phổi
- Vú
- Ruột (đại trực tràng)
9. Ai có thể bị bệnh ung thư
Bất kỳ ai cũng có thể bị căn bệnh này, và đây lại là một trong những căn bệnh gây tử vong cao.
Nhiều hơn gấp 4 lần số bệnh nhân được chẩn đoán ở những người trên 60 tuổi. Tuy nhiên, người trẻ ngày nay tiếp xúc nhiều hóa chất độc hại cũng có khả năng cao mắc bệnh.
Người ta ước tính rằng hơn 4000 ca tử vong hàng năm là do chế độ ăn uống kém, uống rượu, ít vận động và thừa cân.
Một lần nữa, chúng ta có thể thấy đây là những cái chết có thể được ngăn chặn.
10. Phương pháp điều trị bệnh ung thư
Việc điều trị ung thư phụ thuộc vào loại và giai đoạn bệnh, tác dụng phụ của phương pháp điều trị, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Các phương pháp chữa ung thư bao gồm phẫu thuật, hóa chất, xạ trị bên cạnh đó có các phương pháp khác như điều trị đích, điều trị miễn dịch. (Hiện chưa có vắc xin điều trị)
-
Phẫu thuật: giúp loại bỏ càng nhiều tế bào ung thư càng tốt, là phương pháp điều trị cơ bản trong phần lớn bệnh ung thư.
-
Hóa trị: giúp tiêu diệt các tế bào ung thư phát triển nhanh chóng bằng thuốc.
-
Xạ trị: sử dụng các chùm bức xạ mạnh, điều trị gần (xạ trị áp sát) hoặc bên ngoài (xạ trị bên ngoài) để tiêu diệt các tế bào ung thư.
-
Cấy ghép tế bào gốc (tủy xương): giúp sửa chữa tủy xương bị bệnh với các tế bào gốc khỏe mạnh. Những ca cấy ghép này cho phép các bác sĩ sử dụng liều hóa trị cao hơn để điều trị ung thư.
-
Liệu pháp miễn dịch (Liệu pháp sinh học): sử dụng các kháng thể để giúp hệ thống miễn dịch nhận ra ung thư để có thể chống lại tế bào ung thư.
-
Liệu pháp hormone: ngăn chặn các tế bào ung thư phát triển trong điều trị một số loại ung thư phụ thuộc nội tiết như ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến.
Các bác sĩ thường sẽ sử dụng nhiều hơn một loại điều trị để tối đa hóa hiệu quả.
11. Biến chứng bệnh ung thư
Ung thư và việc điều trị ung thư có thể gây ra một số biến chứng, bao gồm:
-
Đau đớn: Đau có thể do ung thư hoặc điều trị ung thư, mặc dù không phải tất cả ung thư đều gây đau. Thuốc và các phương pháp khác có thể điều trị hiệu quả cơn đau liên quan đến ung thư.
-
Mệt mỏi: Mệt mỏi ở những người bị ung thư có nhiều nguyên nhân, nhưng nó thường có thể được kiểm soát. Mệt mỏi liên quan đến hóa trị hoặc xạ trị là vấn đề phổ biến, nhưng nó thường chỉ kéo dài tạm thời.
-
Khó thở: Ung thư hoặc điều trị ung thư có thể gây khó thở..
-
Buồn nôn: Một số bệnh ung thư và phương pháp điều trị có thể gây buồn nôn. Bác sĩ đôi khi có thể dự đoán nếu điều trị có khả năng gây buồn nôn và sẽ kê thuốc hoặc phương pháp điều trị khác để ngăn ngừa hoặc giảm buồn nôn.
-
Tiêu chảy hoặc táo bón: Ung thư và điều trị ung thư có thể ảnh hưởng đến ruột, gây ra tiêu chảy hoặc táo bón.
-
Sụt cân: Ung thư và điều trị ung thư có thể gây giảm cân. Tế bào ung thư sẽ lấy thức ăn từ các tế bào bình thường và làm mất chất dinh dưỡng.
-
Thay đổi hóa học trong cơ thể: Ung thư có thể làm đảo lộn sự cân bằng hóa học bình thường trong cơ thể và làm tăng nguy cơ biến chứng nghiêm trọng. Các dấu hiệu và triệu chứng của sự mất cân bằng hóa học có thể gồm khát nước quá nhiều, đi tiểu thường xuyên, táo bón và nhầm lẫn.
-
Vấn đề về não và hệ thần kinh: Tế bào ung thư có thể chèn ép các dây thần kinh gần đó và gây đau và mất chức năng của một bộ phận trong cơ thể. U não hoặc ung thư di căn não có thể gây ra đau đầu và các dấu hiệu và triệu chứng giống như đột quỵ, chẳng hạn như yếu ở một bên cơ thể.
-
Phản ứng bất thường của hệ miễn dịch với ung thư là gì? Trong một số trường hợp, hệ miễn dịch của cơ thể có thể phản ứng với sự hiện diện của ung thư bằng cách tấn công các tế bào khỏe mạnh. Những phản ứng rất hiếm gặp này có thể dẫn đến một loạt các dấu hiệu và triệu chứng, chẳng hạn như đi lại khó khăn và co giật.
-
Ung thư di căn: Khi ung thư tiến triển, nó có thể lan rộng (di căn) đến các bộ phận khác của cơ thể.
-
Ung thư tái phát: Những người sống sót sau ung thư có nguy cơ tái phát bệnh ung thư. Một số bệnh ung thư có nhiều khả năng tái phát hơn những bệnh khác. Hỏi bác sĩ về những gì bạn có thể làm để giảm nguy cơ tái phát ung thư. Bác sĩ có thể đưa ra một kế hoạch theo dõi cho bạn sau khi điều trị. Kế hoạch này có thể bao gồm kiểm tra định kỳ trong những tháng và năm sau khi điều trị.
12. Phòng ngừa bệnh ung thư
Thông thường, không có phương pháp nào để ngăn ngừa tuyệt đối nguy cơ mắc bệnh ung thư. Nhưng các bác sĩ đã xác định một số cách để giảm nguy cơ ung thư chẳng hạn như:
Bỏ thuốc lá. Hút thuốc dù chủ động hay thụ động đều có liên quan đến một số loại bệnh ung thư – không chỉ là bệnh ung thư phổi. Mà còn là miệng, họng, thanh quản, tụy, bàng quang, cổ tử cung và thận. Không chỉ bạn mà những người thân xung quanh cần dừng hút thuốc sẽ làm giảm nguy cơ bệnh ung thư trong tương lai.
Tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời quá nhiều. Tia cực tím có hại (UV) từ mặt trời có thể làm tăng nguy cơ ung thư da. Sử dụng quần áo bảo hộ hoặc bôi kem chống nắng nếu bạn phải ra ngoài.
Tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư
Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh. Chọn chế độ ăn nhiều trái cây, rau quả, ngũ cốc nguyên hạt và protein giúp tăng cường sức khỏe cho bạn. Hạn chế các loại thịt.
Tập thể dục thường xuyên giúp giảm nguy cơ ung thư thấp
Duy trì cân nặng khỏe mạnh. Nguyên nhân thừa cân hoặc béo phì có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại bệnh ung thư khác nhau, bao gồm ung thư vú, tuyến tiền liệt, phổi, ruột và thận. Do vậy, để bạn đạt được và duy trì cân nặng khỏe mạnh nên thông qua sự kết hợp của chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên.
Khám sàng lọc ung thư định kỳ dựa trên các yếu tố nguy cơ ung thư trong cuộc sống hằng ngày..
Tiêm chủng. Chích ngừa có thể giúp ngăn ngừa một số loại virus gây bệnh ung thư.
13. Kết luận
Năm 2020, Việt Nam ghi nhận 182.563 ca mắc mới ung thư. Trong đó 5 loại ung thư phổ biến nhất hiện nay gồm ung thư gan (14,5%), phổi (14,4%), ung thư vú ở nữ (11,8 %), dạ dày (9,8%), đại trực tràng (9%). Tromg đó, phần lớn các trường hợp ung thư là do chịu ảnh hưởng từ các yếu tố nguy cơ đến từ môi trường và lối sống không lạnh mạnh.
Do đó, bệnh ung thư là có thể phòng ngừa và tránh khỏi.
Hi vọng qua bài viết này, chúng ta đã có cái nhìn tổng quan hơn về căn bệnh quái ác của thời đại này. Tuy khoa học kỹ thuật càng ngày phát triển nhưng vẫn không thay đổi được tỷ lệ tử vong do bệnh ung thư ngày càng cao.
Các bệnh viện trên cả nước báo cáo các ca bệnh ung thư hàng ngày với con số chóng mặt. Hàng ngàn, hàng triệu gia đình không chỉ tốn tiền của mà còn đối mặt với nguy cơ mất người thân cận kề.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh, chúng ta hãy hành động ngay từ bây giờ để bảo vệ sức khỏe cho chính mình và cả gia đình.